Nguy cơ "nước sẽ là dầu mỏ của thế kỷ 21 hay chiến tranh sẽ nổ ra vì nước chứ không phải bởi dầu mỏ" được nhắc đến trong Hội nghị quốc tế về Hợp tác Vì an ninh nguồn nước, năng lượng và lương thực trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở các lưu vực sông xuyên biên giới (2-3/4) tại thành phố Hồ Chí Minh.


Ảnh minh họa.

Tại Hội nghị, các nhà khoa học trong nước và quốc tế đều đánh giá tầm ảnh hưởng rất lớn đối với khu vực và thế giới của lưu vực sông Mekong. Bởi cứ mỗi ba tháng một lần, riêng vùng hạ du của lưu vực sông Mekong là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam đã cung cấp cho thế giới 1,5 triệu tấn gạo và 1 triệu tấn thủy, hải sản.

Dầu mỏ của thế kỷ 21

Hơn 300 đại biểu gồm các học giả, chuyên gia, nhà quản lý trong khu vực và trên thế giới, trong đó có đại diện cấp cao của 20 tổ chức lưu vực sông quốc tế ở châu Âu, châu Phi và 20 đối tác tài trợ quốc tế… đã cùng tập trung thảo luận về các thách thức chính ở lưu vực sông Mekong như hợp tác giữa các quốc gia ven sông để đảm bảo an ninh nguồn nước, năng lượng và lương thực khi dân số ngày càng tăng; khai thác hiệu quả các tiềm năng về năng lượng và sản xuất nông nghiệp; đối phó với thực trạng nước biển dâng, lũ lụt và hạn hán gia tăng, sự thay đổi về số lượng và chất lượng nước do ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu. Trong đó mối liên kết giữa nguồn nước, năng lượng và lương thực được nhấn mạnh, nhằm tìm ra các giải pháp quản lý và phát triển bền vững cho lưu vực sông Mekong.

Chủ tịch Hội đồng nước thế giới Benedito Braga nhắc lại nguy cơ "nước sẽ là dầu mỏ của thế kỷ 21 hay chiến tranh sẽ nổ ra vì nước chứ không phải bởi dầu mỏ". Ông khẳng định hợp tác là quan trọng khi hơn 40% nhân loại phải sống nhờ vào các nước láng giềng để đáp ứng các nhu cầu nước hằng ngày của mình. Sự kết nối giữa nước, năng lượng và an ninh lương thực cần được sự quan tâm đồng đều.

Hành động trước khi quá muộn

Những đóng góp quan trọng của sông Mekong cho sự phát triển ở Việt Nam nói riêng, mà cụ thể là ĐBSCL và các nước trong khu vực nói chung, có lẽ sẽ không còn nữa nếu như chúng ta không có những hành động kịp thời để cứu lấy con sông, khi mà lượng nước đổ về hạ lưu Mekong đang ngày càng ít đi.

Đã có rất nhiều tường trình khoa học nêu ra các nguyên nhân chính, cả thiên tai và nhân tai. Thứ nhất, do biến đổi khí hậu bất thường, cho nên cả lưu vực có ít mưa hơn. Kế đến là nạn phá rừng đã làm biến mất thảm thực vật, vốn là kho trữ nước tự nhiên của lưu vực. Thứ ba là do các hồ chứa nước ở thượng nguồn, đã tích nước lại quá nhiều và quá nhanh. Và thêm một nguyên nhân nữa là nước được chuyển ra khỏi dòng chính để canh tác. Tất cả đã góp phần gây hạn hán cho khu vực hạ nguồn sông Mekong.

Theo nghiên cứu, các con đập ở thượng nguồn Mekong đã có ảnh hưởng đến việc trồng lúa của ĐBSCL. Khi dòng chảy của sông Mekong giảm sút, nước mặn từ biển sẽ xâm nhập vào nội địa và khối lượng phù sa đổ vào ĐBSCL trong thời gian lũ lụt cũng giảm, làm giảm độ màu mỡ của đất đai canh tác, và những tổn thất từ việc giảm năng suất lúa là khó tránh khỏi. Những con đập này đã cung cấp nhiều manh mối về tác động có thể của biến đổi khí hậu.

Từ năm 2009, Viện Khí tượng Thủy văn và Khoa học môi trường quốc gia của Việt Nam đã cảnh báo gần một phần ba diện tích ĐBSCL có thể bị ngập mặn, nếu mực nước biển dâng cao thêm 1 mét. Nước mặn từ biển hiện đang xâm nhập sâu tới 40 km vào ĐBSCL, chứ không chỉ có 10 km như cách đây 30 năm.

Nếu lưu lượng nước tiếp tục giảm như thế, lưu vực sẽ "chết khát". Nông nghiệp, chăn nuôi và ngư nghiệp, ba kế sinh nhai truyền thống ngàn đời của sáu mươi triệu dân cư lưu vực sẽ bị đe dọa. Nạn nghèo, đói, thiếu nước và bệnh tật sẽ hoành hành cùng các hệ quả xã hội xấu đi kèm theo sau. An toàn thực phẩm và nguồn nước sẽ suy thoái đến độ dân cư không còn sinh sống được nữa.

Mỗi năm qua đi, vựa lúa ĐBSCL vẫn đang tiếp tục làm tròn vai trò đảm bảo an ninh lương thực cho thế giới và tạo ra nguồn cung dồi dào cho xuất khẩu của Việt Nam. Với diện tích trên 40.000 km2 là nơi sinh sống của gần 20 triệu dân, hàng năm đóng góp đến 27% GDP với 90% lượng gạo xuất khẩu, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới và gần 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Tuy nhiên, vựa lúa số 1 của Việt Nam hiện cũng đang phải chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu và tình trạng phát triển các công trình ở thượng nguồn, gây ảnh hưởng lớn tới đời sống của hàng triệu người dân trong khu vực.

Dự báo, nếu không có thay đổi tích cực, chẳng bao lâu nữa, ĐBSCL có nguy cơ mất đi 7,6 triệu tấn/năm, tương đương với 40,52% tổng sản lượng lúa của cả vùng.

An Sinh